Cấu trúc đề thi môn chuyên năm nay thực hiện theo cấu trúc quy định của Sở GD-ĐT. Đây là lần đầu tiên Sở quy định cấu trúc đề thi tuyển sinh các môn chuyên nhằm nâng cao chất lượng và tiệm cận kiến thức các môn chuyên chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi quốc gia hàng năm.
Kiến thức bài thi đảm bảo độ phân hóa, tăng cường câu hỏi mở, câu hỏi vận dụng, câu hỏi gắn với thực tiễn.
Đối với lớp chuyên Tin học, Sở GD-ĐT Ninh Bình hướng dần đến việc tuyển sinh toàn bộ lớp chuyên Tin học bằng bài thi chuyên Tin học. Vì thế, trong năm 2024 - 2025, tỉnh tăng 7 chỉ tiêu đối với thí sinh đăng ký bài thi chuyên Tin học so với năm học 2023 - 2024. Cụ thể, lớp chuyên Tin học tuyển tối đa 25 chỉ tiêu đối với thí sinh đăng ký bài thi chuyên Tin học, số còn lại tuyển thí sinh đăng ký bài thi chuyên là môn Toán chuyên.
Sinh ra ở Hà Nội, khi Cẩn học cấp 2, bố mẹ không còn sống cùng nhau nữa. Cẩn và em trai chuyển về ở với mẹ. Đến năm anh học lớp 10, mẹ quyết định đi bước nữa. Thấu hiểu hoàn cảnh, hai anh em luôn chủ động trong việc học hành.
Là học sinh giỏi của Trường THPT Trần Phú (Hoàn Kiếm), Gia Cẩn thi đỗ vào chương trình Cử nhân Quốc tế IBD của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Mức học phí của chương trình khi ấy khoảng 40 triệu đồng/kỳ học.
Để có tiền cùng mẹ trang trải học phí, anh đi làm gia sư môn Toán cho những học sinh THCS. Tuy nhiên hết năm nhất, công việc của mẹ gặp trục trặc. Không đủ khả năng chi trả học phí, anh đành ngậm ngùi bảo lưu việc học.
Trong suốt thời gian không đến trường, Gia Cẩn chăm chỉ đi dạy thêm để tích lũy tiền bạc. Thời điểm này cũng là lúc mẹ phải chuyển tới một nơi ở khác, chỉ còn hai anh em Cẩn sống dựa vào nhau. May mắn, thời phổ thông Cẩn có một người bạn gái cùng lớp luôn đồng hành và hỗ trợ.
“Bạn ấy và gia đình đã hỗ trợ mình rất nhiều, luôn nhiệt tình giới thiệu học sinh, nhờ vậy mình mới có thể tự trang trải cuộc sống”, Cẩn nhớ lại.
Trải qua 1,5 năm, Cẩn quyết định quay lại việc học ở trường bằng số tiền tự tích lũy. Tuy nhiên, chương trình học nặng cùng áp lực học phí một lần nữa khiến Cẩn lung lay. Lần này, anh quyết định nghỉ hẳn để tập trung vào việc dạy học. 23 tuổi, Cẩn kết hôn với người bạn gái đã đồng hành cùng mình từ những năm tháng phổ thông.
“Khi ấy, mình không có gì trong tay. Gia đình vợ là những người đã hậu thuẫn cho mình rất nhiều”. Cẩn biết ơn và khẳng định nếu không có những sự hỗ trợ vô điều kiện ấy, có lẽ anh đã không thể vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất.
Kết hôn xong, bố mẹ khuyên vợ chồng Cẩn nên chuyển về ở cùng tại quận Hoàn Kiếm để tiết kiệm chi phí. Quãng thời gian này, anh và vợ vẫn luôn đồng hành cùng nhau mở các lớp dạy thêm cho học sinh THCS. Suốt 9 năm kể từ 2011, dù chưa có bằng cấp bài bản, anh vẫn được phụ huynh tin tưởng, giới thiệu và gửi gắm con em. Nhờ vậy, hai vợ chồng có thể sống bằng đồng lương dạy thêm.
Đến năm 2019, khi con gái được 2 tuổi cũng là lúc em gái vợ chuẩn bị thi đại học, Cẩn là người hỗ trợ, hướng dẫn em ôn thi.
Thấy chồng có “duyên nợ” với công việc dạy học, vợ Cẩn ra sức động viên chồng thử thi lại đại học xem sao. Thời điểm ấy chỉ còn cách ngày thi đại học khoảng 3 tháng.
“Mình suy nghĩ rất nhiều bởi bản thân đã nhiều tuổi, cũng lâu không động đến kiến thức. Hơn nữa, hình thức thi khi ấy đã khác so với thời của mình vì chuyển từ tự luận sang trắc nghiệm”.
Dẫu vậy, Cẩn vẫn tự hệ thống lại kiến thức dựa trên những điều còn nhớ. Anh cũng hoàn toàn tự học dựa trên các tài liệu online. Không tự tin đăng ký vào Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Cẩn chọn ngành Sư phạm Toán của Trường ĐH Thủ đô Hà Nội, xét tuyển bằng khối D07 (Toán, Hóa, Anh). Năm ấy, anh đạt 30,85/40, thừa điểm trúng tuyển vào trường.
Vào trường, thời gian đầu Cẩn thấy ngại vì “nhìn mình già hơn rất nhiều so với các bạn cùng lớp”. Nhưng rất nhanh sau đó, anh bị cuốn vào những bài giảng “khá lâu mới có dịp học lại”.
“Mình đi học với tâm thế háo hức, môn nào cũng thích thú, tò mò không biết sẽ có những nội dung gì. Vì học với niềm yêu thích nên mình luôn cố gắng lắng nghe mọi điều thầy cô giảng, tự nghiên cứu cả ở lớp và khi về nhà”.
Nhờ vậy suốt 8 kỳ, Cẩn đều giành học bổng, trong đó hầu hết các môn đều đạt A và A+. Kết thúc 4 năm học, Cẩn đạt điểm tổng kết 3.77/4.0, trở thành thủ khoa đầu ra toàn trường.
Ngay sau khi tốt nghiệp, anh đã thi và trúng tuyển vào vị trí giáo viên môn Toán của Trường THCS Đô Thị Việt Hưng (Long Biên).
Trải qua 4 năm đại học, Cẩn cảm thấy may mắn vì bản thân quyết tâm lựa chọn học lại. “Mình đã học được rất nhiều điều. Việc học hành bài bản cũng cho mình cơ hội, nếu không có lẽ cuộc sống của mình sẽ rất khó khăn, không có tương lai”.
4 năm đại học trải qua thuận lợi, theo Cẩn, cũng là nhờ sự hỗ trợ của vợ và bố mẹ vợ. “Vợ mình là người luôn đồng hành, hỗ trợ và cảm thông cho mình từ giai đoạn khó khăn. Đó có lẽ là điều may mắn nhất trong cuộc đời của mình. Còn bố mẹ vợ cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ con về thời gian và chuyện chăm sóc cháu. Lúc nào mình cũng cảm thấy bản thân mắc nợ mọi người rất nhiều”.
Cũng vì những sự hy sinh ấy, Cẩn nói sự nỗ lực của mình là điều đương nhiên phải làm và kết quả đạt được cũng đều nhờ vào sự giúp đỡ của mọi người trong gia đình.
Điều 4 Nghị định 116 quy định như sau: Đối với học sinh tiểu học và THCS phải bảo đảm một trong các điều kiện sau: Là học sinh bán trúđang học tại trường phổ thông dân tộc bán trú; Là học sinh mà bản thân và bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn đang học tại các trường tiểu học, THCS thuộc xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi; các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
Nhà ở xa trường khoảng cách từ 4km trở lên đối với học sinh tiểu học và từ 7km trở lên đối với học sinh trung học cơ sở hoặc địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn: Phải qua sông, suối không có cầu; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá;
Là học sinh mà bản thân và bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi đang học tại các trường tiểu học, THCS thuộc xã khu vực II vùng dân tộc và miền núi. Nhà ở xa trường hoặc địa hình cách trở giao thông đi lại khó khăn cụ thể như quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này.
Đối với học sinh THPT là người dân tộc thiểu số, phải bảo đảm các điều kiện sau: Đang học tại trường THCS hoặc cấp THPT tại trường phổ thông có nhiều cấp học; Bản thân và bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi; các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Nhà ở xa trường khoảng cách từ 10 km trở lên hoặc địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn: Phải qua sông, suối không có cầu; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá.
Đối với học sinh THPT là người dân tộc Kinh, ngoài các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều này còn phải là nhân khẩu trong gia đình thuộc hộ nghèo.
Theo đó, các đối tượng học sinh trong diện thụ hưởng chính sách sẽ được áp dụng mức hỗ trợ quy định tại Điều 5, Nghị định 116 với mức hỗ trợ như sau: Hỗ trợ tiền ăn - Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng bằng 40% mức lương cơ sở và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh; Hỗ trợ tiền nhà ở - Đối với học sinh phải tự túc chỗ ở do nhà trường không thể bố trí ở bán trú trong trường, mỗi tháng được hỗ trợ bằng 10% mức lương cơ sở và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh; Hỗ trợ gạo - Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh.
Ngoài ra, tùy từng địa phương có thể có các chính sách hỗ trợ thêm cho học sinh miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Chính sách học bổng
Học bổng chính sách đối với học sinh dân tộc nội trú và học sinh dự bị đại học được quy định tại Điều 9 Nghị định số 84/2020/NĐ-CPcủa Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục.
Cụ thể, đối tượng nhận học bổng chính sách là: Sinh viên theo chế độ cử tuyển; học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, học viên cơ sở giáo dục nghề nghiệp dành cho thương binh, người khuyết tật.
Mức hưởng: Đối với Sinh viên theo chế độ cử tuyển; học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, học viên cơ sở giáo dục nghề nghiệp dành cho thương binh, người khuyết tật mức học bổng bằng 80% mức lương cơ sở/tháng. Đối với học viên là thương binh thuộc hộ nghèo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp dành cho thương binh, người khuyết tật mức học bổng bằng 100% mức lương cơ sở/tháng.
Những chính sách đang được dự kiến
Bộ GD-ĐT đã có Dự thảo lần 2 Nghị định quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách. Dự thảo này được đưa ra lấy ý kiến góp ý từ ngày 27/6 đến ngày 27/8 vừa qua.
Trong dự thảo này, Bộ GD-ĐT đề xuất đối tượng áp dụngbao gồm: Trẻ em nhà trẻ bán trú học tại cơ sở giáo dục mầm non; Học sinh bán trú học tại cơ sở giáo dục phổ thông; Học viên bán trú học chương trình giáo dục thường xuyên cấp THCS, THPT; Học sinh dân tộc nội trú học tại trường phổ thông dân tộc nội trú; Học sinh dự bị đại học học tại trường dự bị đại học.
Đối tượng cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh được hưởng chính sách bao gồm: Nhà trẻ, nhóm trẻ độc lập, trường hoặc điểm trường mầm non, lớp mầm non độc lập (gọi chung là cơ sở giáo dục mầm non) có tổ chức ăn cho trẻ em nhà trẻ bán trú; trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có tổ chức ăn, ở tập trung cho học sinh bán trú, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học.
Trẻ em nhà trẻ được hưởng chính sách trẻ em bán trú phải đảm bảo một trong các điều kiệnsau: Trẻ em nhà trẻ thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn đang học tại cơ sở giáo dục mầm non thuộc xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo;
Trẻ em nhà trẻ người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo thường trú tại xã khu vực II, khu vực I vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang học tại cơ sở giáo dục mầm non thuộc xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Học sinh được hưởng chính sách học sinh bán trú phải đảm bảo một trong các điều kiện sau: Học sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở mà bản thân và bố hoặc mẹ hoặc người giám hộ thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn đang học tại trường phổ thông thuộc xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo, nhà ở xa trường từ 4 km trở lên đối với học sinh tiểu học và từ 7 km trở lên đối với học sinh trung học cơ sở, hoặc địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn: phải qua biển, hồ, sông, suối; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá;
Học sinh THPT là người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo và người dân tộc thiểu số mà bản thân và bố hoặc mẹ hoặc người giám hộ thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn đang học tại các trường trung học, nhà ở xa trường từ 10 km trở lên hoặc địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn: phải qua biển, hồ, sông, suối; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá;
Học sinh dân tộc nội trú đang học tại trường phổ thông dân tộc nội trú, hoặc đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông được cấp có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh dân tộc nội trú.
Học sinh dự bị đại học đang học tại trường dự bị đại học, hoặc đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục đại học được Bộ GD-ĐT giao thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng dự bị đại học.
Mức hưởngchính sách đối với trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên được đề xuất tại Điều 6 như sau:
1. Chính sách đối với trẻ em nhà trẻ bán trú: Hỗ trợ tiền ăn bữa chính, bữa phụ: Mỗi trẻ em nhà trẻ được hỗ trợ mỗi tháng là 360.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
2. Chính sách đối với học sinh bán trú và học viên bán trú: Hỗ trợ tiền ăn - Mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng là 900.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học; Hỗ trợ tiền nhà ở - Mỗi học sinh, học viên phải tự túc chỗ ở do nhà trường không thể bố trí chỗ ở trong trường, hoặc do cần có sự hỗ trợ, chăm sóc đặc biệt của người thân (sức khỏe yếu, khuyết tật, nhỏ tuổi) thì mỗi tháng được hỗ trợ là 360.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học;
Hỗ trợ gạo - Mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học; Học sinh, học viên năm cuối cấp THPT được hưởng chính sách quy định cho đến tháng thi tốt nghiệp nhưng không quá 10 tháng/năm học; học sinh bán trú có học tăng cường tiếng Việt trước khi vào học lớp 1 được hưởng thêm 1 tháng.
Chính sách đối với học sinh dân tộc nội trú và học sinh dự bị đại học: Học bổng chính sách quy định tại Điều 9 Nghị định số 84/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục;
Khen thưởng: Trong năm học, học sinh đạt danh hiệu "Học sinh Xuất sắc" được thưởng 800.000 đồng/học sinh; học sinh đạt danh hiệu "Học sinh Giỏi" được thưởng 600.000 đồng/học sinh;
Trang cấp đồ dùng cá nhân và học phẩm: Mỗi cấp học, học sinh được cấp một lần bằng hiện vật: Chăn, màn và các đồ dùng cá nhân khác với mức kinh phí là 1.080.000 đồng/học sinh; Mỗi năm học, học sinh được cấp 2 bộ quần áo đồng phục và học phẩm gồm: Vở, giấy, bút và các dụng cụ học tập khác với mức kinh phí là 1.080.000 đồng/học sinh;
Học sinh được cấp tiền tàu xe 2 lần mỗi năm học vào dịp Tết Nguyên đán và dịp nghỉ hè (cả lượt đi và lượt về) theo giá vé thông thường của phương tiện giao thông công cộng (trường hợp không có phương tiện giao thông công cộng thì được tính theo quãng đường và giá vé thông thường của phương tiện giao thông công cộng trên địa bàn tỉnh)
Hỗ trợ gạo: Mỗi học sinh được hỗ trợ 15 kg gạo/tháng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Học sinh năm cuối cấp trung học phổ thông được hưởng đến tháng thi tốt nghiệp nhưng không quá 10 tháng/năm học.